ĐẠI HỘI BƯỞI CVA TÒAN CẦU KỲ 8 OCTOBER 2021 – SAN JOSE, CA

Lớp CVA 12B1 1973 đã tham dự Đại Hội Bưởi CVA Tòan Cầu Kỳ 8 được tổ chức tại San Jose, California vào chiều thứ bảy ngày 30 tháng 10, 2021. Mời các bạn xem bài tường thuật của kỳ họp mặt này.

Sáng thứ năm, 28 tháng 10, CVA 12B1 Vũ An Đạt từ Maryland và Nguyễn Xuân Hạo từ Dallas, Texas đã bay đến quận cam ở California. Trưa thứ năm, với lời mời của các anh CVA 64/65/66, anh Nguyễn Thế Dũng(12B1) đã cùng anh Đạt và anh Hạo có một cuộc chơi gôn thân thiện với các anh Nguyễn Đức Nam (CVA 64), Lê Anh Vũ (CVA 65), Vương Diệp (CVA 65), và Vũ Quốc Phong (CVA 66) tại sân gôn Old Ranch Country Club ở Seal Beach, California.

Tình huynh đệ CVA vẫn thắm thiết hơn 60 năm …
… khí hậu lý tưởng của miền nam Cali

Một buổi thể thao ngoài trời với bạn bè thân thương, tình huynh đệ CVA, và dưới nắng ấm tình nồng của miền nam Cali quả là tuyệt vời.

Sáng thứ sáu, 29 tháng 10, cũng như thường lệ của các kỳ họp mặt trước, CVA 12B1 lại tụ họp ờ cafe Lilly on Bolsa Avenue (tương tự như cafe Lá Me ở VN) và cùng ôn lại những kỷ niệm xưa ở trường CVA và kinh nghiệm sống suốt 2 năm qua trong thời bệnh dịch Covid-19. Cùng nhau cụng những ly cafe nóng với những nụ cừoi ròn tan của anh Lê Hồng Hà và Nguyễn Xuân Hạo … chắc không có bút mực nào tả hết nổi.

Chiều thứ sáu, 29 tháng 10, CVA 12B1 73′, đã có 1 cuộc họp mặt tiền đại hội thật vui tại nhà hàng Coq au Vin, California. Trong cuộc họp mặt này gồm có: anh chị Nguyễn Quý Hiển (Orange County, CA), anh chị Cao Mạnh Minh (Orange County, CA), anh chị Nguyễn Thế Dũng (Orange County, CA), Nguyễn Thế Nam (Orange County, CA), Nguyễn Xuân Hạo, Lê Hồng Hà (San Clemente, CA), và Vũ An Đạt. Và cũng trong cuộc họp mặt này, chúng ta có thêm CVA 75, anh chị Nguyễn Mạnh Tiến (Orange County, CA) – em ruột của Nguyễn Thế Dũng. Một cuộc họp mặt thật là vui kết chặt tình bằng hữu sau bao tháng trời xa cách.

… tình bạn luôn luôn bất diệt

Tờ mờ 6 giờ sáng thứ bảy 30 tháng 10, Đạt đi đón Nguyễn Xuân Hạo và Lê Hồng Hà và mua bánh mì ba lẹ, cafe sữa đá để chuẩn bị lái xe 6 tiếng lên San Jose tham dự CVA Đại Hội Toàn Cầu Kỳ 8. Đến nhà Nguyễn Thế Nam, một biệt thự to ở vùng Villa Park, cali với mảnh vườn đầy trái cây ăn trái … 8 giờ gặp Nguyễn Thế Dũng, chuyển hành lý sang xe SUV của Nguyễn Thế Nam và đúng 8:45 cả nhóm khởi hành đi San Jose.

Sáu tiếng ngồi trên xe, ôn lại bao nhiêu kỷ niệm xưa, bao nhiêu chuyện tình éo le, bao nhiêu tiếng cười, của 6 thập niên qua đã được kể lể suốt chặng đường dài … và đã làm cho tài xế lơ đãng đi lạc hơn 1 tiếng đồng hồ và không đến San Jose cho tới 3g chiều. Sau khi check in hotel, tắm rửa sạch sẽ, và thay đồ cho buổi đại hội, chúng tôi đã có mặt tại nơi Đại Hội vào lúc 5g chiều.

Mặc dù cơn khủng-hoảng của COVID chưa chấm dứt, vậy mà CVA Bắc Cali đã can-đảm tổ-chức buổi đại hội, chúng-tôi rất cảm phục, cũng nhờ vậy mà chúng-tôi mới có dịp được gặp lại bạn bè nhất là được gặp lại nhiều bạn cũ mà hơn 24 tháng mới được gặp lại, thật tuyệt-vời ! Đại diện cho lớp CVA 12B1 73’ gồm có:  Vũ An Đạt, Nguyễn Thế Dũng, Nguyễn Thế Nam, Nguyễn Xuân Hạo, và Lê Hồng Hà.

Một buổi họp mặt có hơn 600 người tại nhà hàng China Dynasty, các cựu giáo sư, và đại diện các lớp từ 1959 cho đến 1977 từ các nơi đổ về đã kết chặt tình huynh đệ và truyền thống của CVA qua mấy thế kỷ qua.

Sau phần nghi-lễ, tiết-mục chính: bắt đầu là video phỏng-vấn và giới thiệu các giáo-sư CVA và các nhân-tài xuất-thân từ mái trường CVA là phần có giá-trị nhất và đặc-biệt nhấtmà từ trước đến nay chưa có một hội ái-hữu cựu học-sinh nào thực hiện được, tiết-mục này đã nói lên được niềm tự-hào của quý-vị cựu học-sinh CVA.  Anh hội trưởng CVA Bắc Cali Lê Văn Tỉnh đã bày tỏ sự cám ơn của ban tổ chức cũng như sự tham gia ủng hộ nhiệt tình của tất cả các giáo sư và cựu học sinh CVA.

Ngoài tiết mục chào quốc kỳ, Lễ Thầy, và chụp hình chung theo truyền thống và văn nghệ như những kỳ Đại Hội trước đây, lần này Hội CVA ghi nhận nỗ lực đóng góp mới mẻ của các cựu HS với văn nghệ cùng những Poster, mô hình cổng trường CVA Saigon thân yêu năm xưa đã được nhiều thế hệ Giáo sư và cựu học sinh CVA đón nhận. Phần trình chiếu các tác phẩm văn nghệ / hình ảnh sinh hoạt của Hội CVA của các cựu HS CVA cũng là nét đặc trưng của ĐHTC 8.

Tiếp theo là phần diễn-giải chí-khí CVA với phần phụ họa của ban Trống La-San, đã thu hút được sự chú-ý của cả hội-trường, các em trong trang-phục truyền-thống mầu sắc rất lộng-lẫy, trình diễn rất nhịp-nhàng, rất hấp-dẫn khiến không-khí hội-trường càng thêm phần hào-hứng. Rồi đến màn trình-diễn Hội-nghị Diên-Hồng của nhóm CVA 71 từ nam Cali, điều khiển bởi anh Vương Đình Điềm. Tuy chỉ có hai giờ tập với nhau, nhưng thiện-chí của nhóm này đã một lần nữa nói lên được tinh-thần rất cao của hoc sinh CVA.

Ban văn-nghệ CVA Bắc Cali phụ trách với các bản nhạc quê hương do các cựu CVA và các hiền-thê CVA  rất duyên-dáng, trình-bầy rất hay không thua gì các ca sĩ chuyên-nghiệp… Cuối cùng phần văn-nghệ là phần trình diễn của ca-sĩ nổi tiếng như Hồ Hoàng Yến, và Anh Tuấn. Người điều khiển chương trình, CVA Nam-Lộc đã mở đầu bằng vài câu chuyện hài hước, mọi người được dịp cười thoải mái. Sau đó các ca-sĩ lần-lượt cho hội trường thưởng-thức những bản nhạc chọn lọc thính-phòng và dạ-vũ  rất hay …

Sau đây là vài tấm hình luu niệm …

Sau phần đại hội, cả nhóm lại kéo về nhà anh Việt, người anh họ rất là dễ thương của Nguyễn Thế Dũng, để uống thênm vài lon bia và nghe thêm Hồ Hoàng Yến tâm sự đến nửa khuya …

Cũng trong dịp này, CVA 12B1 đã có dịp móc nối với CVA 73′ lớp B2 và B4 như các anh Vương Đình Phan, Vương Tất Tiến, và Vũ Thanh Tùng …

Sau ngày họp mặt, sáng chủ nhật 31 tháng 10, anh Việt đã dẫn cả nhóm thưởng thức những món đặc sản của San Jose ở nhà hàng Saigon Kitchen … và sau đó đi mua ẩm thực cho chuyến về 6 tiếng lái xe trở lại nam cali.

Trong chuyến về, cả nhóm lại có thêm 6 tiếng hàn huyên, kể lại những mẫu chuyện của thời thơ ấu, những công lao giáo dục của thầy, và những thành quả tốt đẹp của con cháu … thật là một cơ hội nhớ lại những kỷ niệm không bao giờ quên.

Cám ơn anh tài xế thật giỏi đã đưa các bạn về nhà an toàn vào lúc 6:30 chiều cùng ngày.

Về đến nam cali, ngày hôm sau nhóm 12B1 lại có thêm vài cuộc họp nho nhỏ ở Palm Spring …. và cafe Factory.  Gửi các bạn xem vài hình tiêu biểu:

Một buổi họp mặt thật là vui và gom góp bao nhiêu kỷ niệm. Cám ơn tất cả các bạn đã tham dự … và nhất là cám ơn đến anh Vũ An Đạt đã thành công tổ chức, và kết hợp các bạn cũ trong kỳ họp mặt này. Hy vọng được gặp lại tất cả các bạn vào buổi họp mặt kỳ tới.

12B1 CVA 73 Ăn Mừng Bệnh Dịch Đã Hết

Sau 18 tháng cách ly, đeo khẩu trang, không được du hành vì bệnh dịch corona, và cuối cùng được chích ngừa, hôm chủ nhật 23 tháng năm, 2021, lớp 12B1 73′ đã có một cuộc họp mặt thân hữu tại nhà hàng Grand Garden ở Orange County, California để ăn mừng bệnh dịch đã bị diệt trừ … Các bạn CVA 73 xa gần đã không quản ngại đường xa đã đến chung vui.

Sự hiện diện của 12B1 gồm có anh chị Vũ An Đạt (Maryland), anh Nguyễn Xuân Hạo (Texas), anh Nguyễn Hữu Vũ (Texas), anh chị Cao Mạnh Minh (cali), anh Lê Hồng Hà (Rạch Giá), anh chị Trần Lê Tuấn (cali), anh chị Nguyễn Thế Dũng (cali), anh chị Nguyễn Thế Nam (cali), anh chị Nguyễn Quý Hiển (cali), và anh Phan Thượng Thọ (cali). Một buổi họp mặt thật là vui, rất là thân mật, và cũng là một cơ hội họp mặt hiếm có của 12B1 73 ở cái tuổi ngoài lục tuần.

Ngoài 12B1 73, trong cuộc họp mặt còn có sự tham dự của:

– CVA 64/65/66 – anh Vũ Quốc Phong, anh Bùi Đức Uyên (cựu hội trưởng hội Bưởi CVA Nam cali), anh Nguyễn Địch Hà (cựu hội trưởng hội Bưởi CVA Nam cali), anh chị Phạm Quang Tuấn (hội trưởng hội Bưởi CVA Nam cali), anh chi Hồng, và anh chị Tỉnh (hội trưởng hội Bưởi CVA Bắc cali)

– CVA 72 – anh chị Nguyễn Công Huân

– CVA 75 – anh chị Nguyễn Mạnh Tiến  

Mời các bạn xem vài hình tiêu biểu trong buổi họp mặt thân hữu này:

12B1 73′ lúc nào cũng phong độ, vui vẻ, và hòa đồng sau hơn 6 thập niên
CVA 64-65-66-72-73-75, lúc nào cũng đoàn kết bày tỏ tình huynh đệ

Cũng như những kỳ họp mặt trước, các bạn 12B1 73′ cũng không quên khoe những tài năng khác của mình như chơi gôn, thục bi-da, và không thể thiếu cà phê lá me để ôn lại những kỷ niệm vui buồn của thời trung học hơn nửa thế kỷ trước. Mời các bạn xem vài hình tiêu biểu.

Cũng trong kỳ họp mặt thân hữu này, 12B1 73′ đã nhận được một tin buồn là thân mẫu của bạn Lê Hồng Hà đã mãn phần vào ngày 13 tháng 5, 2021 tại Orange County, California, hưởng thọ 90 tuổi. Lễ an táng đã được cử hành vào ngày 28 tháng 5, 2021. Lớp 12B1 73′ thành thật chia buồn cùng bạn Lê Hồng Hà và nguyện hương hồn cụ bà sớm về cõi niết bàn. Đại diện cho lớp 12B1 73′ đã đến đưa tiễn cụ bà gồm có: Phan Thượng Thọ, Nguyễn Thế Dũng, Cao Mạnh Minh, và Nguyễn Quý Hiển. Mời các bạn xem vài hình hôm đưa tiễn cụ bà.

Thành thật cám ơn sự hiện diện quý báu của tất cả các bạn. Hy vọng chúng ta sẽ có nhiều cuộc họp mặt vui như thế trong những ngày tháng tới.

Lớp 12B1 CVA73

Một Ngày Thật Vui 12B1 CVA 73

Một Ngày Thật Vui 12B1 CVA 73

Hôm thứ bẩy, 15 tháng hai, 2020 … đúng một ngày sau ngày lễ của Tình Yêu, CVA 73 12B1 đã có một ngày thật là vui. Đó là ngày lễ cưới của bạn Cao Mạnh Minh và Nguyễn Thanh Thanh dưới nắng ấm tình nồng của miền nam Cali. Tiệc cưới được tổ chức tại nhà hàng Grand Garden với các trùm hoa Lan Orchids nở rộng đón mừng đôi uyên ương của 12B1. Các bạn CVA 73 xa gần đã không quản ngại đường xa đã đến chung vui cùng hai họ.

Sự hiện diện của 12B1 gồm có Vũ An Đạt (Maryland), Nguyễn Xuân Hạo (Texas), Nguyễn Hữu Vũ (Texas), Dương Xuân Hùng (Texas), Lê Hồng Hà (Rạch Giá), Trần Lê Tuấn (cali), Nguyễn Thế Dũng (cali), Nguyễn Thế Nam (cali), Nguyễn Quý Hiển (cali), và Lê Trọng Huy (cali). Một buổi tiệc thật là vui và cũng là một cơ hội họp mặt hiếm có của 12B1. Mời các bạn xem vài hình tiêu biểu trong buổi tiệc cưới này:

Để giúp vui và chúc mừng cô dâu và chú rể, lớp 12B1 đã không quên trổ tài với những giọng ca điêu luyện của Trần Lê Tuấn, Lê Trọng Huy và vợ là Tiểu Nương đã hát nhiều bài tình tứ suốt đêm giúp cho buổi họp mặt thật là vui nhộn.

Cũng lợi dụng kỳ họp mặt hiếm có này, lớp 12B1 đã kéo nhau ra quán cà phê trước và sau ngày cưới, ôn lại những kỷ niệm của thời CVA thuở xưa, và nghe anh Lê Hông Hà kể lại những mẩu chuyện vui (love stories) có một không hai ở VN.

Thành thật cám ơn sự hiện diện quý báu của tất cả các bạn. Mến chúc hai bạn Cao Mạnh Minh và Nguyễn Thanh Thanh trăm năm hạnh phúc.

Hy vọng chúng ta sẽ có nhiều cuộc họp mặt vui như thế trong những ngày tháng tới.

Lớp 12B1 CVA73 H>

ĐẠI HỘI BƯỞI CVA TÒAN CẦU KỲ 7 SEPTEMBER 2019- ORANGE COUNTY, CALIFORNIA

Lớp 12B1 1973 đã tham dự Đại Hội Bưởi CVA Tòan Cầu Kỳ 7 được tổ chức tại Orange County, California vào chiều chủ nhật ngày 15 tháng 9, 2019. Đại diện cho lớp 12B1 gồm có:

Vũ An Đạt (Maryland), Nguyễn Thế Dũng (Orange County, CA), Trần Lê Tuấn (Orange County, CA), Nguyễn Thế Nam (Orange County, CA), Nguyễn Hữu Vũ (Houston, TX), Nguyễn Xuân Hạo (Dallas, TX), Nguyễn Quý Hiển (Orange County, CA),và Cao Mạnh Minh (Orange County, CA).

Một buổi họp mặt có hơn 600 người, các cựu giáo sư, và đại diện các lớp từ 1959 cho đến 1977 từ các nơi đổ về đã kết chặt tình huynh đệ và truyền thống của CVA qua mấy thế kỷ qua.

Ngoài tiết mục Lễ Thầy và chụp hình chung theo truyền thống và văn nghệ như những kỳ Đại Hội trước đây, lần này Hội B-CVA ghi nhận nỗ lực đóng góp mới mẻ của các cựu HS niên khóa 64 -71 với văn nghệ cùng những Poster, mô hình cổng trường CVA Saigon thân yêu năm xưa đã được nhiều thế hệ Giáo sư và cựu học sinh CVA đón nhận. Phần triển lãm các tác phẩm văn nghệ / hình ảnh sinh hoạt của Hội B-CVA của các cựu HS CVA cũng là nét đặc trưng của ĐHTC 7.

CVA_Ky7

… chương trình tiêu biểu còn có:

– Đoàn Văn Nghệ Dân Tộc Lạc Hồng Với Màn Hát Chèo.

Hat-Cheo

– Ban Hợp Ca Bưởi-Chu Van An hợp ca bài Hội Nghị Diên Hồng.

HopCa

– Ban Tứ Ca CVA Bắc Cali đồng ca “Mưa Saigon, Mưa Hà Nội” với các anh Phạm Văn Thịnh, Bảo Sơn, Nguyễn Văn Thịnh cùng tiếng đàn Violin của Luật Sư Nguyễn Đình Sơn

Bac_Cali

– Ban tứ ca Hương Xưa với Hồng Tước, Vũ Khiêm, Mai Phương và Vương Lan đồng ca bài “Ngày Về” tác giả Hoàng Giác

Huong_Xua

– Ban Tế Lễ, Hội Trưởng Nguyễn Quang Tuấn Chủ Tế

Te_Le

… và còn có nhiều ca sĩ giúp vui phần văn nghệ và dạ vũ. Sau đây là vài tấm hình luu niệm … CVA 12B1 73

Group

CVA4

CVA3

B1_B4 (2)

Dance

Lớp 12B1 còn có sự cộng tác của anh Nguyễn Tuấn (York, PA), lớp CVA đàn anh và cũng là anh ruột của Nguyễn Hữu Vũ (HHDB) và ca sĩ Kiều-Nga. Đựoc gặp lại các bạn cũ, thầy cũ, và các lớp đàn anh, thật là một kỷ niệm đáng nhớ .… nhất là được chụp chung với Giáo Sư Nguyễn Xuân Vinh và ban tổ chức Đại Hội Kỳ 7.

N_X_Vinh (2)

CVA 12B1 73 cũng không quên hưởng thụ miền nắng ấm Cali đi chơi gôn và thưởng thức các món ăn đặc sản ở miền Nam Cali  … café Lilly, nhà hàng Coq au Vin, cơm tấm Thành, hủ tíu Cô Ba, cà phê Patisserie, ….

20190914_133735

20190914_155608

Coq_Au_Vin

Com_Tam_Thanh

20190915_105139

20190915_123240

Lilly

Một buổi họp mặt thật là vui và gom góp bao nhiêu kỷ niệm. Cám ơn tất cả các bạn đã tham dự … và nhất là cám ơn đến anh Nguyễn Thế Dũng đã thành công kết hợp các bạn cũ trong kỳ họp mặt này. Hy vọng được gặp lại tất cả các bạn vào buổi họp mặt kỳ tới.

Đại Hội Bưởi CVA Tòan Cầu Kỳ 6 September 2017- San Jose, California

 

Lớp 12B1 1973 đã tham dự Đại Hội Bưởi CVA Tòan Cầu Kỳ 6 được tổ chức tại San Jose, California vào chiều chủ nhật ngày 10 tháng 9, 2017. Đại diện cho lớp 12B1 gồm có: Vũ An Đạt (Maryland), Nguyễn Thế Dũng (Orange County), Lương Phụng Thiên (San Jose), Lê Hồng Hà (Orange County), Phan Thượng Thọ (Oregon), và Cao Mạnh Minh (Houston).

Một buổi họp mặt có gần 700 người, các cựu giáo sư, và đại diện các lớp từ 1959 cho đến 1976 từ các nơi đổ về đã kết chặt tình huynh đệ và truyền thống của CVA qua mấy thế kỷ qua.

Sau đây là vài tấm hình luu niệm.

IMG_5673

IMG_5664 (1024x683)

37023313186_a8faae2d8c_z

CVA73_4

 

CVA73_6

IMG_5627

Đựoc gặp lại các bạn cũ, thầy cũ, và các lớp đàn anh, thật là một kỷ niệm đáng nhớ. May mắn cho 12B1, đã có được hình lưu niệm với GS Nguyễn Xuân Vinh.

NXV

… và cũng không quên nhắc nhở các bạn là nếu có dịp ghé qua San Jose, nên nhớ thưởng thức trà đá của San Jose, một đặc sản có một không hai trên US. Đây là một tấm hình tiêu biểu 12B1 đang thưởng thức trà đá ỏ SJ.

CVA73_5

Một Thời Vàng Son Chữ Nghĩa

Để tưởng nhớ nhà thơ Song Hồ

NHẬT TIẾN


Cái thời ấy, chẳng phải giầu sang phú quý hay đời sống thanh bình yên ấm gì, nhưng tôi vẫn nghĩ đó là một thời vàng son của một đám bè bạn hãy còn cắp sách đến trường. Họ là những học trò chẳng ngoan gì mấy của Chu văn An, Nguyễn Trãi, của Khai Minh, Minh Tân, Văn Hóa ..v…v…những trường trung học công, tư nổi tiếng của Hà Nội vào giữa thế kỷ trước. Cái đám bạn bè ấy, ngoài những hương vị sảng khoái đầu đời của lứa tuổi đang sắp sửa bước vào ngưỡng cửa của sự thành niên, lại còn đam mê chuyện cầm bút mà trong đầu đứa nào cũng đều ôm mộng trở thành một văn sĩ, hoặc thi sĩ và ngay cả một kịch tác gia. Vì thế mới gọi là một thời vàng son chữ nghĩa. Thời của Hà Nội những năm 1950- 1954….mà nhạc sĩ Hoàng Dương đã diễn tả trong bài Hướng Về Hà Nội: 

… Hà Nội ơi, nước hồ là ánh gương soi, 
Nắng hè tô thắm lên môi, 
Thanh bình tiếng guốc reo vui…

Hà Nội ơi, những ngày thơ ấu trôi qua, 
Mái trường phượng vĩ dâng hoa
Dáng chiều rủ bóng tiên nga.
Hà Nội ơi, mắt huyền ngây ngất đê mê, 
Tóc thề thả gió lê thê, 
Cứ tin ngày ấy anh về …..

Vào cái “thời điểm Hà Nội” ấy, lũ chúng tôi còn đang là độc giả trung thành của những cây bút nổi danh đương thời như Ngọc Giao với Quán Gió, Xã Bèo, Nhị Lang với Bèo Giạt, Hà Bỉnh Trung với Răng Đen Ai Nhuộm Cho Mình , Nguyễn Minh Lang với Mẹ Tôi Sớm Biệt Một Chiều Thu, Hoàng Công Khanh với Trại Tân Bồi và nhất là Hồ Hữu Tường với Phi Lạc Sang Tầu, Phi Lạc Náo Hoa Kỳ, Phi Lạc Bỡn Nga..v.v…Đọc để rồi khen tấm tắc hay bình phẩm này nọ …. 

Vậy mà trong đám độc giả học trò ấy cũng đã nhiều đứa có tác phẩm được đăng báo đấy. Hai nhân sự được liệt vào hàng lỗi lạc nhất của đám chúng tôi, phải kể đến Vũ Khắc Mai Anh, bút hiệu Vũ Mai Anh và Nguyễn Đức Cầu bút hiệu Hùng Phong. Vũ Mai Anh hồi đó ở phố hàng Đồng, đang học lớp Đệ Ngũ trường Chu văn An, tức lớp 8 bây giờ. Vậy mà trong cặp-táp của hắn chứa đầy nhóc bản thảo. Số trang bản thảo có lẽ phải dầy hơn gấp bội những trang vở ghi chép bài học. Một cuốn đã viết xong và đang được nhà xuất bản Chính Ký ở đường Sinh Từ chuẩn bị cho ra mắt độc giả là cuốn tiểu thuyết dài mang tên Phũ Phàng, còn một cuốn nữa có tên Duyên Kiếp thì đang được Vũ Mai Anh viết dở dang trên những trang lớn (loại khổ giấy hồi đó bán theo tệp), chữ nhỏ li ti và đang được đăng từng kỳ trên tuần báo Hồ Gươm do bác sĩ Bùi Cẩm Chương làm chủ nhiệm. 

Còn anh chàng Hùng Phong Nguyễn Đức Cầu thì ở phố hàng Than, lúc đó cũng đang là một học sinh lớp Đệ Lục. Vậy mà hắn đã có cả một thiên phóng sự dài đăng từng kỳ trên nhật báo Liên Hiệp do ông Soubrier Văn Tuyên làm chủ nhiệm thì mới “thánh” chứ ! Thiên phóng sự mang tên “Con Cò Mày Đi Ăn Đêm” mô tả những hoạt động phiêu lưu và sôi nổi của những con người hoạt động trong những đường dây buôn lậu từ nội thành ra vùng Việt Minh kiểm soát hồI đó gọi là hậu phương hay vùng kháng chiến. 

Thực tình cho đến nay tôi cũng vẫn chưa hiểu tại sao và bằng cách nào mà cậu nhỏ Hùng Phong lại có nhiều tài liệu lạ lùng và hay ho đến thế. Còn kỹ thuật viết thì khỏi nói, chính tôi đã trông thấy những trang bản thảo của hắn với thứ chữ viết loằng ngoằng phóng túng, khi in ra rất được độc giả say mê theo dõi từng kỳ báo. 

Nhờ thiên phóng sự này mà Hùng Phong đã lẫm liệt bước vào hàng ngũ những ký giả phóng sự điều tra thứ thiệt. Khi hắn xòe ra cho tụi tôi coi cái cạc vi-dít in hàng chữ “Hùng Phong- Journalist” thì chúng tôi không có ai dám thắc mắc gì. Tất cả chỉ tròn xoe mắt ra nhìn một cách thán phục. Nếu cần phải nói thêm vài kỷ niệm về cái anh chàng người nhỏ thó nhưng dáng dấp nhanh nhẹn, vầng trán rất cao nom như sắp hói này thì tôi phải nói rằng Hùng Phong Nguyễn Đức Cầu chơi đàn Banjo Alto rất giỏi. 

Hồi còn học chung với nhau ở lớp Nhất trường Hàng Vôi (sau đổi là Nguyễn Du do thầy giáo Quỳnh giảng dạy), cái tên Hùng Phong chưa xuất hiện. Cầu hay lui tới nhà tôi ở phố hàng Kèn bằng một cái xe đạp đầm hiệu Pegeot rất cũ kỹ mà tay lái (guidon) đã cụt mất hẳn một bên. Tôi chẳng hiểu Cầu xoay sở lái cái xe ấy cách nào nhưng hắn đã xài nó liên tiếp hết năm này qua năm khác để đi học, đi rong chơi tung tẩy khắp phố phường và thường mang theo cây đàn Banjo tới ngồi ở cửa sổ nhà tôi để gẩy lên nhiều bản nhạc nghe giòn giã mê người.

Ngoài hai nhân sự rất nổi kể trên, đám học trò sính văn nghệ chúng tôi còn nhiều tên tuổi khác, có thể kể Hiệp Nhân học sinh lớp đệ Tam (tức lớp 10 bây giờ) tự xoay tiền in lấy truyện dài Linh Hồn Ngọc được giáo sư quốc văn Nguyễn Uyển Diễm đem đi giới thiệu ở tất cả các trường, lớp nơi ông giảng dạy; rồi Lê Ninh đang mài đũng quần nơi nhà trường cũng hợp tác với bạn bè ra giai phẩm Lửa Lựu gây sôi nổi trong giới học sinh trung học Hà Nội thời bấy giờ. 

Qua lớp tuổi già dặn hơn một chút, tức khoảng trên dưới 20, thời đó cũng có nhiều cây bút góp phần làm cho sinh hoạt văn chương thêm rầm rộ, như Mọc Đình Nhân in Hương Mùa Loạn; Nguyễn Quốc Trinh, Hoàng Phụng Tỵ ra chung tập thơ Ươm Đẹp; đặc biệt Nguyễn Nam Tê, một nhà thơ độc đáo vừa làm nghề đạp xích lô, vừa sáng tác thơ để in tập Tin Về Đất Bắc. 

Bên cạnh đó là một loạt những ngòi bút trẻ chưa tới tuổi 20 như Song Hồ, Huy Sơn, Dương Vy Long, Kiều Liên Sơn, Giang Quân, Hồ My, Tạ Vũ ..v.v… Họ đều rải rác có văn, thơ in trên các báo như Tiểu Thuyết Thứ Bẩy, Hồ Gươm, Thời Tập, Cải Tạo, Tia Sáng, Giang Sơn, Liên Hiệp, Chánh Đạo….ở Hà Nội hay Thẩm Mỹ, Mùa Lúa Mới, Nhân Loại ở Sài Gòn.

Song Hồ Nguyễn Thanh Đạm hồi cư về sinh sống ở Hà Nội vào khoảng 1952. Hình như trước đó, năm 1949, tuy mới 16, 17 chưa tới tuổi thành niên nhưng anh đã là một chiến sĩ tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp. Lăn lộn qua nhiều chiến trường, lòng “anh chiến sĩ” không nguôi nhớ về Hà Nội. Chẳng hiểu chàng nhớ tới ai mà ngay giữa rừng thông Thái Nguyên, vùng núi rừng Việt Bắc, Song Hồ đã viết bài thơ đầu tiên mang tên “Thư Gửi người Em Hà Nội” trong có những câu :

Anh viết lá thư về Hà Nội
Giữa lúc bóng chiều
Ngả mầu sắc tối
Lòng người chiến sĩ căm căm
Đã bao tháng năm ?
Chưa bức thư nào
Về thăm người em gái nhỏ
Không biết anh đi từ độ nọ
Người em còn nhớ tới không?
Hay ở nơi đây
Ánh sáng Kinh Thành
Em cười trên tay kẻ khác
Nhưng anh vẫn tin
Tình em còn mộc mạc
Như tình anh
Mối tình giữa buổi chiến tranh…..
Song Hồ (1949)

Sau này, khi trở về Hà Nội, Song Hồ tiếp tục đi học lại (trường Văn Hóa của Giáo sư Nguyễn Khắc Kham) và tiếp tục làm thơ. Thơ của anh khi đó không còn vấn vương tình ái nữa mà mang nặng tính cảm hoài về thời cuộc, thế sự :

Đây Hà Nội trời mưa tuôn rả rích
Bê bết bùn lầy nước đọng nhớp nhơ
Đèn nê-ông tỏa ánh điện xanh lơ
Nhạc cuồng loạn, gót giầy lay lắc ván
Một rồi hai, trăm ngàn rồi đến vạn
Đèn nhạt đèn xanh đèn tím đèn vàng 
Nhạc điên cuồng vẫn réo rắt reo vang
Mầu biến đổi là lòng người biến đổI
Hiện dần trong bóng tối
Có người con gái miền quê
Khăn yếm bỏ đi rồi
Làn tóc loăn xoăn
Đỏ mọng đôi môi
Chiều thứ bẩy
Giầy đinh vang hè phố…..
Song Hồ (1953)

Nói đúng ra, lứa tuổi thanh thiếu niên thuộc thế hệ chúng tôi không chỉ có toàn những thứ tình cảm lãng mạn. Đất nước vào thời kỳ đó vẫn còn đang chìm đắm trong chiến tranh, tuy sự tàn phá của nó so ra không bằng một góc của cuộc chiến Quốc Cộng Nam Bắc vừa qua. Súng nổ ở đâu không thấy chứ ngay giữa lòng thủ đô Hà Nội thì đời sống vẫn mang vẻ thanh bình, nhộn nhịp. Chẳng thế mà nhạc sĩ Hoàng Dương đã ca ngợi Hà Nội với những lời như đã dẫn:

Hà Nội ơi, nước hồ là ánh gương soi, 
Nắng hè tô thắm lên môi, 
Thanh bình tiếng guốc reo vui


Nhưng huy chương nào thì cũng có bề trái của nó. Hà Nội mộng mơ, Hà Nội, thanh bình, Hà Nội đẹp xinh …thường chỉ qua nhãn quan của tầng lớp trung lưu. Nếu nhìn sâu xuống đáy xã hội thì vẫn có những hoàn cảnh sống lầm than, những cuộc đời bị đối xử bất công, bị chìm đắm trong sự cùng quẫn nghèo khó. Là những con người yêu văn thơ, khuynh hướng sáng tác của những người làm văn nghệ trẻ ở thời kỳ đó không hề có tính vô cảm. Cho nên ngoài sự ca ngợi tình yêu, quê hương, đất nước, sáng tác của họ cũng đã mang nhiều dấu tích xã hội. Nhẹ nhàng mang tính chất học trò nghèo khó thì có những câu thơ của Tạ Vũ viết năm 1952:

Bạn ơi
Trên trang giấy trắng,
Dòng mực chảy đều
Tai nóng bừng vì bài toán không ra
Có nhớ đến tôi
Bỏ trường – không học phí
Duyên thế hệ thôi từ nay cách biệt !


Tạ Vũ mồ côi cả cha lẫn mẹ, sống nhờ bà dì, có lúc lại vào ngụ cư ở khu nuôi trẻ không nhà trong ngôi chùa Tầu gần phố Sinh Từ Hà Nội. Anh đã chen chúc với đám mồ côi cùng lứa tuổi để viết những dòng thơ như sau :

Ánh đèn không soi mái phố
Linh hồn dắt díu về đây
Chăn đâu cho đầy giấc ngủ !
Nôn nao cơm lưng dạ dầy !

Thao thức nằm nhìn bóng tối
Nghẹn ngào khóc dưới cửa ô
đêm mơ thấy đời đổi mới
Sáng ra buồn hơn bao giờ ….


Năm 1954, Tạ Vũ không di cư vào Nam. Hơn năm mươi năm trời không gặp lại, nhưng tôi được biết sau này Tạ Vũ vẫn tiếp tục làm thơ, và anh đã có thời nổi tiếng ở miền Bắc là một thi sĩ của những công nhân trong ngành khuân vác.

Tưởng cũng nên nhắc thêm vài bài thơ của những ngòi bút, tuổi trên dưới 20 của Hà Nội hồi đầu thập niên 50 thế kỷ trước. Già dặn, sâu sắc thì có Song Nhất Nữ, bút hiệu của Đặng Bá Ngư, một chàng trai chính hiệu, người làng Hành Thiện, tỉnh Nam Định lên Hà Nội học, với bài Cửa Ô đã được chúng tôi truyền tụng trong thời kỳ ấy :

Cửa Ô
(Gửi năm Cửa Ô Hà Nội)

Mầu sắc u huyền,
Đất trời nghiêng ngửa,
Đô thành bừng lửa.
Ngoại ô này lành lạnh sống trong đêm…

Ánh đèn le lói
Chìm đắm triền miên
Nơi đây son phấn,
Nơi đây kim tiền,
Nơi đây trụy lạc,
Nơi đây nghèo hèn
Đêm về những giấc mơ điên
Đêm về ngùn ngụt túi phiền lầm than
Đêm về vàng bệch đèn tàn
Đêm về điên loạn cung đàn xót xa
Cửa Ô xa…
Có nhiều bóng ma…
Đi trong bê tha…
Đi trong xênh phách
Đi trong đói rách
Đi trong lệ nhòa
Thất thểu… la cà…
Bóng ma… bóng ma…

Đâu đây vàng ngọc lụa là,
Cửa ô… ngõ hẻm… a ha ! Cuộc đời!
Song Nhất Nữ
(Thi tập Ươm Đẹp – 1953)

Nhà thơ trẻ Nguyễn Quốc Trinh, đồng tác giả tập thơ Ươm Đẹp ngoài những vần thơ trữ tình:

Hoa bừng dưới gót em qua
Tôi cười dưới gót em xa
Bát ngát Thơ ngân tiếng guốc
Đường hương mở đón chân ngà…


chàng trai ấy cũng có khuynh hướng xã hội như bài thơ Dễ Hiểu sau đây dù sáng tác ở Hà Nội vào năm 1953 nhưng lạ thay, đã như những lời thơ tiên tri vẽ cảnh tầng đáy của Hà Nội ở thời điểm hơn 50 năm sau, bây giờ : 

Dễ Hiểu

Vì mãi gò lưng kéo
Cày cho kẻ khác no
Chiều về nhai cỏ héo
Chuồng hẹp nằm co ro

Vì sống như trâu bò
Kiếp này sang kiếp khác
Cha già cha phát ho
Mẹ già xương xộc xạc

Vì đời buồn xơ xác
U ám như đêm nghèo
Mồ hôi chua áo rách
Muối mặn quả cà meo

Hoa đẹp nở vườn nào
Thơ bầy trong tủ kính
Con choắt vợ xanh xao
Ngựa xe người đủng đỉnh

Vì tôi muốn anh muốn
Vì chúng ta cùng muốn
Đêm già: xô ngã xiên !
Ngày non: cười thẳng dướn !
NGUYỄN QUỐC TRINH
(Thi tập Ươm Đẹp-1953)


Một nhà thơ khác cũng rất nổi tiếng trong giới bạn bè non trẻ chúng tôi là Nguyễn Thị Hồ My (sau đổi thành Hồ My). Đó chẳng phải là một “nhà thơ nữ” mỹ miều nào mà chỉ là bút hiệu của một chàng thư sinh cũng đang mài đũng quần ở bậc trung học. Cái sự tuy là nam nhi mà lại ưa lấy bút hiệu phái nữ hình như là một cái mốt của đám sáng tác trẻ trung ở thời kỳ đó, như Song Nhất Nữ tức Đặng Bá Ngư kể trên hay Nguyễn Thị Yếm Thắm là bút hiệu của Nguyễn Yên Tri, một anh chàng học trò cùng lớp, cùng trường với tôi từ khi còn ở bậc tiểu học. 

Xin nhắc lại một bài thơ của Hồ My sáng tác năm 1953:

Đi Đêm
Viết tặng người lầm than

Bên mái hàng hiên
Một bóng người thấp thoáng đi đêm
Gót mòn xiết tiếng rên rên,
Như khóc cuộc đời tăm tối.
Đêm nay dưới ánh đèn le lói
Bóng mẹ già, vợ dại, con thơ,
Đang bơ vơ
Đang thao thức
Đang rạo rực
Đang mong chờ
Nóng lòng mong kẻ bên bờ đường khuya.

Tiếng guốc kéo lê thê
lóc cóc
lách cách
Như nửa tỉnh nửa mê
Đau thương lên bước bên hè
Đêm dài, pÏhố vắng, đường khuya một mình

Bên hiên cố ý hay vô tình
Guốc lê mãi gieo buồn người mất ngủ
Mẹ già, con nhỏ.
Vợ dại ai nuôi !
Lang thang giữa lúc tối trời
Lệ trào mặn chát trên môi !
Vang hè phố vắng
Tiếng bước vọng xa xôi
Chập chờn chiếc bóng chơi vơi
Hỡi ôi ! Thương lấy kiếp người đi đêm.
HỒ MY
Ngoại Ô Hà Nội 20-10-53
Báo Tia Sáng / tháng 10-1953


Rồi hiệp định Genève năm 1954 đã khiến đám cầm bút trẻ Hà Nội chúng tôi trở thành tan tác vì nhiều người ở lại mà cũng lắm kẻ vô Nam. Sau này chúng tôi không được tin tức gì của những Hồ My, Giang Quân, Yên Tri, Kiều Liên Sơn…ngoại trừ Tạ Vũ tiếp tục làm thơ, khá nổi tiếng dưới chế độ mới và làm nghề khuân vác gạch vữa trong nghề xây cất. 

Đám di cư vào Sài Gòn thường hay tụ tập ở những túp lều cất trên nền cũ của khám lớn Sài Gòn thời Pháp thuộc, sau trở thành khuôn viên của Đại Học Văn Khoa rồi thành Thư Viện trung ương của thủ đô Sài Gòn do công trình của cụ Mai Thọ Truyền, người nắm chức vụ cao trong ngành Văn Hóa. 

Nguyễn đình Toàn khi mới bước chân vào Nam đã soạn bản nhạc đầu tiên cũng như Mai Thảo viết Đêm Giã Từ Hà nội. Bản nhạc này không có tên và tuy không xuất bản, nhưng cả bọn chúng tôi đều hay nghêu ngao hát những khi rảnh rỗi. Tôi còn nhớ những lời nghe như thơ như sau : 

Mây trắng bay về từ miền xa xôi
Lòng dâng thương nhớ biết giờ nào nguôi
Ai về Bến Hải dòng máu ngăn đôi 
Hận thù chìm dưới oán hờn người ơi….


Tuy nhiên sở trường của Nguyễn đình Toàn là làm thơ và viết tiểu thuyết. Tác phẩm thơ của anh là cuốn Mật Đắng do nhà Huyền Trân in năm 1962, còn tiểu thuyết đầu tay là cuốn Chị Em Hải do cơ sở báo chí và xuất bản Tự Do của giáo sư Phạm Việt Tuyền, Tổng thư ký Trung tâm Văn Bút hồi đó, ấn hành. Sau này, Toàn in thêm những cuốn như Giờ Ra chơi, Áo Mơ Phai. Cuốn Áo Mơ Phai đoạt giải văn chương toàn quốc năm 1974 ở Sài Gòn. Rồi anh trở thành người sáng lập chương trình Nhạc Chủ Đề trên đài phát thanh Quốc Gia tức Đài Tiếng Nói Nước VN, do chính anh viết và đọc lời dẫn giải. Mục Nhạc Chủ Đề này đã làm say mê thính giả trong suốt một thời gian dài. 

Đã có một thời, Song Hồ, Nguyễn đình Toàn và chúng tôi (Nhật Tiến, Đỗ Phương Khanh) ở chung với nhau trong một căn nhà lụp xụp ở Xóm Gà gần ngã ba Bình Hòa bên Gia Định. Rồi bỗng nhiên Song Hồ biến mất. Hóa ra anh được đại tá Hồ Hán Sơn đón lên Tây Ninh gặp trung tướng Nguyễn Thành Phương và yết kiến Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc. Ở đây, anh nhận chức cố vấn văn nghệ, báo chí và đảm trách tờ tuần báo Quyết Thắng cùng đài phát thanh Long Hoa của đạo Cao Đài.

Khi thủ tướng Ngô Đình Diệm tiến hành chủ trương thống nhất quyền lực, Song Hồ bỏ Tây Ninh về Sài Gòn rồi làm việc tại Văn Hóa Vụ do Kiến trúc sư Võ Đức Diên sáng lập. Cuối năm 1958, Song Hồ cùng Dương Vy Long được cử qua Cao Miên làm công tác văn hóa cho tòa đại sứ VNCH, tại đây hai người lo chấn chỉnh lại tờ Hồn Việt vốn là một nhật báo dành cho Việt kiều ở Nam Vang, trong đó Song Hồ giữ vai trò chủ bút. Tuy nhiên, công việc này không lâu bền. Một năm sau, cả hai trở lại Sài Gòn. Song Hồ đi dạy học và tiếp tục làm thơ. Dương Vy Long nhập ngũ rồi sau trở thành Dân Biểu Quốc Hội Đệ Nhị Cộng Hòa. 

Tác phẩm đầu tay của Song Hồ là cuốn Hai Cánh Hoa Tim do nhà Huyền Trân xuất bản năm 1960 và sau đó là cuốn Thơ Song Hồ do nhà Khai Trí ấn hành năm 1964. Anh còn 2 tác phẩm khác đã soạn xong trước năm 1975, một cuốn tên là Việt Nam Mãi Mãi, một tuyển tập Ca Dao, Thơ và Hình ảnh của 3 miền đất nước do anh sưu khảo, tuyển lựa có sự đóng góp của Nhiếp ảnh gia Nguyễn Cao Đàm về phần hình ảnh. Sách dầy 1,400 trang đã được nhà Khai Trí chuẩn bị cho in thì biến cố 1975 làm việc in không thành và bản thảo bị thất lạc.

Cuốn thứ hai là một tập thơ mang tên Đám Cháy Trên Địa Cầu bao gồm 1,600 câu thơ nói về cuộc chiến ở Việt Nam. Tác phẩm này không được phép in năm 1973 và khi CS tiến chiếm Sài Gòn, bản thảo cũng bị thiêu hủy chung với số phận của nhiều tác phẩm khác của miền Nam. Trong thời gian kẹt lại ở Sài Gòn, sống dưới chế độ mới, Song Hồ vẫn âm thầm tiếp tục làm thơ. Như bài “Hỡi Em Nhỏ Cô Đơn” sau đây, do anh sáng tác năm 1981, in trong tác phẩm Đá và Hoa, ấn hành năm 1992:

HỠI EM NHỎ CÔ ĐƠN

Hỡi em nhỏ cô đơn!
Đang lang thang ngoài phố.
Em ơi đi đâu đó?
Cho ta hỏi đôi lời:
– Cha đâu? – Bị cải tạo !
– Mẹ đâu? – Buôn chợ trờI !
– Anh đâu? – Ở Cam Bốt !
– Chị đâu? – Vượt biên rồi !
– Ông đâu? – Đấu tố chết !
– Bà đâu? – Buồn qua đời !
– Cô đâu? – Kinh tế mới !
– Bác đâu? – Tự tử rồi

Thôi ! thôi ! Không hỏi nữa !
Tim ta quá bồi hồi

Sao em còn nhỏ tuổi
Đã biết nhiều chuyện đời 
Sao mảnh đất nhỏ bé
Xẩy nhiều chuyện rụng rời….
……. (1981) 


Mãi cuối năm 1987, Song Hồ mới đi định cư ở Texas. Nơi cư ngụ chính thức của anh là ở dẫy số 9000 Virgil Circle thành phố Austin, Texas. Đời sống của anh ở đây rất trầm lặng, ít giao dịch với bên ngoài, thân thể bệnh hoạn được sự chăm sóc tận tình của vợ anh, chị Nguyễn Thanh Đạm. Anh cũng ít làm thơ đăng báo, thật khác biệt rất xa với cuộc đời trôi nổi của anh kể từ buổi đầu đời. Nhưng anh cũng có 2 tác phẩm ấn hành ở hải ngoại. Cuốn Đá và Hoa do nhà Hướng Dương xuất bản năm 1992 và cuốn Rock and Flower do chính anh tuyển lựa thơ của mình và tự dịch ra Anh ngữ, xuất bản năm 2000.

*****
Bài này được viết sau khi tôi được tin Song Hồ Nguyễn Thanh Đạm vừa qua đời vào ngày 20-5-2009 tại một bệnh viện ở Houston, Texas. Nghi lễ hỏa táng cũng được tiến hành ở thành phố này vài ngày sau đó. Thân nhân còn lại của anh, ngoài chị Nguyễn Thanh Đạm và một cháu trai tên Nguyễn Bảo Hoàng (vượt biển, định cư ở Canada) còn có vợ chồng người chị ruột của anh, tức nhiếp ảnh gia Văn Vũ và phu nhân. 

Lúc sinh thời, bạn bè văn nghệ xếp loại Song Hồ vào hàng ngũ những thi sĩ. Bản thân anh cũng tự coi mình như thế. Anh tha thiết với Thơ, cuối đời sống chìm đắm trong không khí Thơ, nghĩ về Thơ, luôn luôn đề cao vai trò của Thơ và trao cho Thơ những khả năng nhiệm mầu, những sứ mạng vô cùng cao cả. 

Xin trích vài đoạn trong bài “ Nghĩ về Thơ” bao gồm 21 đoạn do anh viết năm 1989: 

“Thơ có một số người ghét vì quá nhiều người yêu Thơ
Kẻ ghét Thơ là những ông Vua không có văn hóa, những Tướng lãnh bất tài, những kẻ có quyền hành mà áp bức ngườI khác, bọn trọc phú và những người ngu dốt
Họ ghét Thơ vì Thơ đả động đến những thói xấu.
Họ sợ Thơ vì Thơ không ích Kỷ.

*
Thơ là sự Tuyệt ĐốI
Một Nhà Văn thành công cũng muốn viết dăm ba bài thơ, nhưng một Thi Sĩ thành công chẳng bao giờ muốn viết truyện dù rằng một cuốn.
Trong Thơ cũng có tranh, có nhạc, nên Thi Sĩ cũng chẳng bao giờ mơ ước trở thành Họa sĩ, Nhạc sĩ.
Trong cuộc sống đã cho thấy những ông Vua muốn trở thành Thi Sĩ, nhưng chẳng có một Thi Sĩ nào trở thành một ông Vua.
Có lẽ con đường mà ngườI Thi Sĩ lựa chọn là con đường bạc bẽo nhất, nhưng cũng có hoa thơm cỏ lạ và tuyệt vời nhất.

*
Thơ là Tai Họa. Thơ chống lại sự suy thoái về Chánh Trị, sự u mê về Tín Ngưỡng, sự sa đọa về Văn Hóa.
Người làm Thơ bị kết án, bị bỏ tù, bị giết chết. Tính mạng được treo giá.
Thi Phẩm bị cấm đoán, bị tịch thu, bị thiêu đốt.
Thơ khai chiến với Điều Xấu. Điều Xấu thắng : Thơ là Tự sát.


Thơ là Sự Can Đảm. Can Đảm đứng trước cái Chết
Can Đảm đứng giữa bờ Tử Sinh.
Từ bỏ cái Thực đi vào cái Mộng
Từ bỏ Giầu sang đi vào Nghèo Nàn.
Từ bỏ cái Vui để vào Buồn Phiền.
Từ bỏ Hạnh Phúc để vào Đớn Đau.
Từ bỏ cái Nguyên vẹn để vào cái Tan Vỡ.
Từ bỏ cái Có để vào cái Không.
Từ bỏ cái Nhất Thời để vào cái Vĩnh Viễn,
Hay đôi khi trái ngược lại.
Can Đảm của Thơ là yêu người mà người không yêu mình.
Yêu Đời mà Đời phụ mình. Và Thi Sĩ là một người sống trong một Thế Giới Treo Ngược.”
SONG HỒ
( Trích Nghĩ Về Thơ -1989)

Vĩnh biệt Song Hồ, một nhà Thơ Việt Nam đích thực của những năm dài khổ đau vì chiến tranh, vì chia rẽ hận thù, vì đè nén, áp bức và cả vì những ngày dài lưu lạc trên xứ người.

Với tâm hồn thấm đẫm chất Thơ của anh, bạn bè đều tin tưởng anh sẽ tìm thấy được sự bình an nơi cõi vĩnh hằng.

NHẬT TIẾN 
Cali tháng 6-2009

Thầy Chu Văn An và Thất Trảm Sớ

Chu Văn An (chữ Hán: 朱文安; 1292–1370), tên thật là Chu An, hiệu là Tiều Ẩn (樵隱), tên chữ là Linh Triệt (靈澤), là một nhà giáo, thầy thuốc, đại quan nhà Trần trong lịch sử Việt Nam, được phong tước Văn Trinh Công nên đời sau quen gọi là Chu Văn An. Quê ông ở làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (Thanh Trì), nay thuộc xóm Văn, xã Thanh Liệt,huyện Thanh Trì, Hà Nội.

Dân ta khi nói về thầy Chu Văn An, ai cũng một lòng ngưỡng mộ, vì thầy là một bậc hiền nho, một tấm gương tiết tháo, suốt đời không màng lợi danh. Thầy có công lớn trong việc truyền bá, giáo dục tư tưởng đạo đức Khổng giáo. Nhận thấy tài năng và đức độ của thầy, vua Trần Minh Tông(1314-1329) mời ra làm Tư nghiệp trường Quốc Tử Giám, dạy học cho thái tử. Đến đời Dụ Tông-thời kỳ suy sụp nhà Trần- tình hình thế sự thay đổi, vua quan ăn chơi sa đoạ, bọn gian thần tham nhũng, đục khoét dân nghèo ngày một nhiều.Cảm xót trước vận mệnh nước nhà, thầy đã nhiều lần can ngăn và dâng sớ chém 7 nịnh thần nhưng đều bất thành nên cáo quan về dạy học, viết sách cho tới khi mất. Sự nghiệp của thầy con ghi và thờ tại Văn Miếu Quốc Tử Giám.

Ngày nay khi nhắc đến thầy Chu Văn An, chúng ta thường liên tưởng tới “Thất trảm sớ” với nội dung xin chém 7 nịnh thần. Đây là một tờ sớ mang dấu ấn lịch sử rất quan trọng , người xưa chỉ nghe tiếng “Thất trảm sớ” thôi là đã ca ngợi rồi, nhà sử học Lê Tung(thế kỷ XV) viết, “Thất trảm chi sớ nghĩa động quỷ thần”, danh sĩ Nguyễn Văn Lý(thế kỷ XX) có thơ “Thất trảm vô vi tồn quốc luận/ Cô vân tuy viễn tự thân tâm”, nghĩa : sớ Thất trảm không được thi hành, cả nước bàn luận/Đám mây lẻ loi tuy xa vẫn tự có tinh thần trong lòng.

Rất tiếc cho đến nay nội dung tờ sớ đó không ai biết, có thể lúc đó bọn  gian thần đã hủy đi để bịt miệng dư luận hoặc ai đó hủy đi để bảo vệ ông cũng nên. Còn vua Dụ Tông thì hoảng sợ, không đủ quyền lực để ra tay.

Theo sử sách ghi lại, nhà Trần trải qua 12 đời vua, từ vua đầu tiên Trần Thái Tông năm 1225, đến vua cuối cùng là Trần Thiếu Đế năm 1400. Như vậy nhà Trần kéo dài được 175 năm. Sau đó vào năm 1400 bị Hồ Quý Ly cướp ngôi. Cụ Chu Văn An sinh ra vào thời vua thứ 6 của nhà Trần, tức vua Trần Minh Tông, trải qua đời vua Trần Dụ Tông, và mất vào đời vua thứ 8 của nhà Trần, tức vua Trần Nghệ Tông, năm 1370.

Thời vua Trần Dụ Tông là thời kỳ bắt đầu suy sụp của nhà Trần, và cũng chính lúc này thầy Chu Văn An dâng Sớ xin vua Trần Dụ Tông chém 7 tên gian thần, để mong cứu vãn nhà Trần. Như đã nói, chính sử không nêu nhưng trong dân gian vẫn truyền tụng nhiều.

Theo cuốn “Vương triều sụp đổ”, tiểu thuyết lịch sử của nhà văn Hoàng Quốc Hải, NXB Phụ nữ – 2006, thì bảy tên gian thần bị Chu Văn An xin nhà vua xử trảm, như sau:

1. Hoạn quan chi hậu cục Mai Thọ Đức, kẻ cai quản phi tần và tuyển chọn mỹ nữ, đã lạm dụng chức quyền bắt về vô số con gái nhà lương dân. Để nhiều người chết trẻ, chết già vì mòn mỏi trong cung thất; lại bày ra các trò dâm ô trác táng dẫn Hoàng thượng vào con đường vô đạo.

2. Trâu Canh, viên ngự y phạm tội làm cho Hoàng thượng liệt dương từ năm 3 tuổi, lại bày trò phục dương cho bề trên khi 15 tuổi. Y đã bắt cóc 21 đứa trẻ khỏe mạnh con nhà lương dân, giết đi lấy mật làm thang cho bài thuốc hồi dương của quan gia. Rồi y bày trò cho quan gia thông dâm với chị ruột mình, nói là phương thuốc chữa trị.

Trong khi chữa trị cho quan gia, y lại thông dâm với cung nhân của chính quan gia. Trâu Canh là người Hán, cháu nội Trâu Tôn đi theo quân nhà Nguyên vào xâm lược Đại Việt, năm Ất Dậu (1285) thất trận bị quân Đại Việt bắt, y đã xin hàng, lại xin được cư trú. Nay Trâu Canh lộng hành, dẫn dắt đức vua vào con đường thương luân bại lý.

3. Bùi Khoan, Chính chưởng phụng ngự. Y bày trò cờ bạc rượu chè dơ dáy ngay trong cung thất, dẫn đức vua vào mê lộ, bê tha như đám dân đen ngu muội.

4. Văn Hiến hầu can tội gây bè đảng khiến các đại thần chia rẽ, ngờ vực lẫn nhau, làm cho đức vua khó phân biệt người ngay kẻ nịnh.

5. Hành khiển tả ty lang trung Nguyễn Thanh Lương, xảo trá, dẫn vua vào con đường ăn chơi xa xỉ, tới cạn kiệt quốc khố.

6. Hành khiển hữu ty, hữu bộc xạ Tâm Đức Ngưu đồng lõa với Nguyễn Thanh Lương tìm đủ mọi cách tăng thu thuế khóa, tăng các sắc thuế từ thượng cổ chưa từng có, để bòn rút của dân, lấy tiền chi vào các cuộc ăn chơi trác táng của hoàng thượng. Kể cả những năm mất mùa đói kém, dân chết đói đầy đường, chúng cũng không tha giảm.

7. Đoàn Nhữ Cẩu, Đồng binh chương sự, bòn rút khẩu phần của lính, các đồ binh khí đã cũ hỏng vẫn không chịu thay thế, để lấy tiền công bỏ túi. Y sao nhãng việc luyện tập canh phòng biên cương phía Bắc, phía Nam gần như bỏ ngỏ. Hiện thời Chiêm Thành đang ráo riết nhòm ngó miền châu Hóa.

Lũ gian thần này mượn danh Hoàng thượng để làm các việc, mà nhìn bề ngoài thiên hạ cứ ngỡ là chúng làm vì Hoàng thượng. Nhưng kỳ thực, các khoản chi tiêu cho Hoàng thượng chỉ một phần, còn vào túi chúng tới chín phần.

Vì vậy thầy giáo Chu Văn An sau khi vạch tôi đã viết, “Để giữ nghiêm phép nước, nối dòng đại thống từ Thái tông cao hoàng đế tới nay, xin bệ hạ cho chém đầu bảy tên gian thần trên, và tịch thu sản nghiệp của chúng, sung quốc khố, để làm gương răn đe kẻ khác”.

Dù chỉ là huyền sử nhưng với những tên người cụ thể, với những cáo trạng như vậy cũng là một “giải mả thú vị”, thoả mãn lòng dân.

Điều quý hơn hết là dân ta đã một lòng ca ngợi và xem thầy như sao Đấu, sao Khuê, Cao Bá Quát cũng từng viết,

VỊNH CHU AN-  Cao Bá Quát.

Kính tiết thanh tu khí phách đương
Dục tương chích thủ vãn đồi dương
Lôi đình bất toả cô trung phẫn
Quỷ mị do kinh thất trảm chương
Hạo khí dĩ bằng thiên địa bạch
Cao phong do đối thuỷ sơn trường
Lâm toàn cựu ẩn kim hà tại
Văn Miếu duy dư tính tự hương.

Dịch thơ:

Tiết cứng lòng trong khí phách hùng
Một tay muốn kéo lại vừng hồng
Cô trung sấm sét không chồn chí
Thất trảm yêu ma phải rợn lòng
Trời đất soi chung vầng hạo khí
Nước non còn mãi nếp cao phong
Suối rừng nơi ẩn nay đâu tá?
Văn Miếu còn tên, hương khói nồng

(Vũ Mộng Hùng dịch)

(Tổng hợp từ internet)